Nhân tướng học về Lưỡng Quyền (hai xương gò má)

Lưỡng Quyền (hai xương gò má) là hai trong năm phần nổi cao của khuôn mặt được gọi là Ngũ Nhạc. Lưỡng Quyền là Đông Tây Nhạc, đóng vai trò hỗ trợ cho khí thế của trung ương là Mũi.


Do đó trong phép xem tướng Mũi, người ta coi Lưỡng Quyền là hai thành phần bất khả phân ly của Mũi (quyền trái ứng năm 46 tuổi, quyền phải ứng năm 47 tuổi trong lưu niên vận hạn của Mũi). 

Mũi toàn hảo về quý cách mà không có Lưỡng Quyền toàn hảo đi kèm thì tính cách hiện thực cửa quyền uy do quý cách mang lại bị chiết giảm. 

Nếu Lưỡng Quyền bị lệch lạc, khuyết hãm thì cái tốt của loại Mũi quý cách chỉ là hư ảo. Mũi toàn hảo chủ về phú cách mà không có sự toàn hảo của Lưỡng Quyền thì đáng lẽ đại phú chỉ còn trung hay tiểu phú và phát bột tàn.

Về mặt cá tính, theo sự khảo sát của nhà tướnghọc Nhật Bản tên là Thạch Long Tứ Thị trong bộ Quan tướng học đại ý thì Lưỡng Quyền do vành tai và xương đỉnh dầu phát triển tạo ra. Do đó, theo nguyên tắc hỗ tương ảnh hưởng của cốt tướng học, Lưỡng Quyền biểu thị cơ năng tự tư tự lợi. 

Chỉ cần nhìn vào Lưỡng Quyền ta có thể biết qua đặc tính tự tư tự lợi của kẻ đó ra sao (tính tự tư tự lợi trên bao gồm cả cá tính cương ngạnh tự tôn). 

Vì vậy, Lưỡng Quyền phát triển thì tín tự tín và tự tôn cũng phát triển theo cùng một tỷ lệ. Kẻ có Lưỡng Quyền phát triển dám nói dám làm những hoài bão của mình.

Đi sâu vào chi tiết, ta thấy có những loại Lưỡng Quyền sau đây:

1. Quyền cao, thấp:

Theo Tề Đông Giã, tác giả bộ Tưởng mạng dàm kỳ, thì Lưỡng Quyền được coi là cao khí nó nằm ở khu vực phía trên đường thẳng chia mũi ra làm hai phần đều nhau (h148/1)


Ngược lại với quyền cao là quyền thấp khi vị trí của Lưỡng Quyền nằm ở phía dưới đường phân ranh tưởng tượng của mũi (h148/2)

Quyền cao tượng trưng cho tínhtự tin và tự tôn mạnh mẽ, các sự cốgắng của cá nhân trong vấn đề cạnh tranh nhằm nhiều đến khía cạnh tư tưởng, tinh thần hơn là lợi ích. Còn Quyền thấp thì ngược lại.

Về phương diện vận mạng, kẻ Quyền cao dễ thành đạ ước nguyện của mình bằng chính khả năng của bản thân, khuyết dụng mưu kế ty tiện được mọi người vị nể (đây chính là khía cạnh tiêu cực của uy quyền). 

Kẻ có Quyền thấp thì không đặt nặng danh dự hoặc không chuộng phẩm cách nên sự tranh đoạt và mưu sinh hay trá ngụy . Do đó, thường bị khinh rẻ và không có uy lực tinh thần đối với người khác.

2. Quyền rộng, Quyền hẹp:

Quyền rộng được coi là Quyền nở. Được coi là Quyền nở khidiện tích của Lưỡng Quyền khá rộng và nổi bật so với diện tích tổng quát của khuôn mặt. 

Muốn so sánh một cách thực tiễn và khoa học hơn khi trung tâm điểm của Quyền nằm ở trên đường ranh giới phân địn bề ngang thực sự của khuôn mặt thì loại Quyền đó thuộc loại Quyền rộng. Nếu trung tâm điểm đó lui dần vào phần diện tích thực sự của khuôn mặt thì bị coi là hẹp.

Quyền rộng biểu thị ý chí đấu tranh và sự tự tin vững chắc kiên cường, đối xử với bằng hữu có tín nghĩa là nồng hậu. Ngược lại, kẻ có Quyền hẹp, tinh thần bạc nhược dễ bị kich động, thiếu kiên trì trong hành động, tâm tính âm hiểm, thiếu sự chung thủy cần thiết, kiến thức và độ lượng hẹp hòi.

Về mặt vận mạng Quyền tượng trưng cho Quyền thế, uy lực vật chất  lẫn tinh thần của một cá nhân đối với người xung quanh. Quyền rộng tượng trung uy tín sâu rộng nếu đi kèm với mũi chủ về quý cách. 

Quyền hẹp phối hợp với Mũi về quý cách biến quyền uy của quý cách trong thực tế trở thành hư ảo, hữu danh vô thực.

3. Quyền phẳng và nổi:

Ngoài hai đặc điểm ở trên ta còn phải phân biệt Quyền phẳng và Quyền nổi. Quyền phẳng là bề mặt của Quyền tuy cao hơn các khu vực xung quanh (trừ mũi) của Trung Đình nhưng bằng phẳng một cách tương đối như nền của một đài cao. 

Ngược lại khi thay vào mặt phẳng đó bằng một mặt cầu (đôi khi phát triển quá độ thành nổi gồ lên như đồi núi hoặc như đỉnh của các tháp xây theo kiến trúc Hồi giáo – nền nhỏ, giữa phình rộng ra và trên cùng thu hẹp dần lại) thì được gọi là Quyền nổi.

Trong tướng học, Quyền phẳng mới tốt, miễn là nó phải cao hơn khu vực xung quanh vì nó tượng trưng cho ý chí bình ổn quân phân, quyền lực vững chãi. Quyền phẳng và rộng vợ con, ý chí kiên trì, chịu đựng dẻo dai, nhưng phản ứng thiên về phòng vệ hơn là gây hấn.

Quyền hẹp và nổi chủ về ương ngạnh, cố chấp và đôi khi trở thành mù quáng (tùy theo sự nổi cao của Lưỡng Quyền giống hình chỏm cầu hay hình chỏm của tháp Hồi giáo), phản ứng của loại người này là phá hoại hơn là xây dựng trong bất luận lãnh vực nào. 

Ở nữ giới kẻ có Lưỡng Quyền cao và nổi là kẻ có trượng phu tính, thích nắm toàn quyền trong gia đình, thích lấn hiếp chồng con, nhất là nó đi đôi với mũi cao và dài (Từ Hy thái hậu). Ngược lại, Mũi vừa phải, Quyền chỉ nở rộng chứ không nổi lại là tướng vượng phu (như mũi của bà Tống Mỹ Linh).


Về mặt vận mạng, loại Quyền nổi cao biểu thị sự bá đạo, đàn bà khắc chồng. Nếu các bộ vị khác đều khuyết hãm thì có thể đoán là nhiều lần khắc vợ hoặc khắc chồng.

Trong tướng học, Quyền cốt thuộc Dương, vị trí lý tưởng của nó phải là nằm ở khu vực Dương của khuôn mặt, tức là phần thượng diện theo đúng nguyên lý Âm Dương của tướng học. 

Loại Quyền lý tưởng này cao rộng, phẳng và phát triển đầy đủ về bề ngang, phần ngoại biên của Quyền ăn lan tới gần phía xương mang tai (dan hxưng là Thiên Thương). 

Vì vậy, loại Quyền này, tướng học gọi là Quyền sáp Thiên Thương chủ về quyền uy thực sự, ổn trọng, cá tính cao thượng, vị tha hơn là vị kỷ. Loại Mũi tốt thuộc loại phú cách và quý cách phải đi kèm với loại Quyền sáp Thiên Thương mới có thể phát huy lực và duy trì được phú quý lâu bền.